Elo xuất phát từ tên của Tiến sĩ Arpad Emrick Elo (1903-1992), người Mỹ gốc Hung. Ông Elo đã xây dựng nên hệ thống tính của mình dựa trên nền tảng hệ thống tính toán của một nhà tổ chức cờ vua Kenneth Harkness (1896-1972), người Mỹ gốc Scotland. Như vậy hệ thống tính này có công của 2 người, nhưng người ta quen gọi tên của ông Elo vì cách tính của ông đã được hoàn thiện và gần với cách tính ngày nay.
Hệ thống Elo hiện tại được áp dụng cho nhiều môn thể
thao khác nhau, tôi không nhớ là bao nhiêu môn. Riêng ở môn cờ vua thì FIDE đã
có bổ sung thêm một số công thức tính toán khác, gán thêm một số quy định và
đặt tên là “Rating” & “Rating Performance” (để khỏi bị nhầm với môn khác) và áp dụng từ năm 1970.
“Rating” và “Rating Performance” là một cặp số được
dùng để đánh giá một cách tương đối các đấu thủ cờ vua trên thế giới mà ta quen
gọi là hệ số Elo và hiệu suất thi đấu. Do chủ đề trong bài này của chúng ta là
giải đáp thắc mắc cho bạn đọc vì vậy ở đây ta sẽ bắt đầu bằng việc giải thích 2
dạng số này của FIDE nhé:
1. Rating: cho ta biết
sức mạnh của một kỳ thủ. Ví dụ như “Rating” của một đấu thủ A là 2500, đấu thủ
B là 2100 cho ta biết rằng đấu thủ A có sức cờ mạnh hơn đấu thủ B. Với Rating
như vậy, trong thi đấu thường thì A sẽ thắng B; Tuy nhiên có đôi khi A cũng bị
B bắt bí, lúc đó hệ số “Rating” của B sẽ tăng và của A sẽ giảm. FIDE dựa vào
“rating” để xếp hạng cho các đấu thủ trên thế giới hoặc để xếp hạt nhân cho một
giải thi đấu nào đó. Như vậy “Rating” là một con số thể hiện sức mạnh tương đối
của một kỳ thủ.
“Mạnh”
tiếng Hán là “Cường”, người Việt mình hay đặt tên con theo từ Hán như Lâm, Hải,
Long v.v… thay vì là Rừng, Biển, Rồng; Do đó tôi cũng xin dịch từ “Rating” này
sang tiếng Hán Việt là “Cường số” cho nó hoành tráng vậy. Hỵ vọng từ này sẽ dễ
chấp nhận cho các bạn nào yêu tiếng Việt, chắc là được phải không các bạn. Như
vậy kể từ đây tôi gọi “Rating” là “cường số”, bạn nào không thích thì có thể
dùng mọi biện pháp tin học để đổi các thuật ngữ này ra theo ý riêng của mình
thì khi đọc sẽ không bị chướng mắt vậy.
2. Rating Performance: đây cũng là một con số giống như “cường số” nhưng nó có
giá trị chỉ trong một giải thi đấu. FIDE căn cứ vào “cường số” ban đầu, cùng
với kết quả thi đấu của các đấu thủ trong một giải, rồi làm một vài phép toán
đại số sẽ cho ra một nhóm số khác để đánh giá khả năng đẳng cấp của đấu thủ
trong giải thi đấu đó gọi là “Rating Performance”, tạm dịch là “hiệu suất”.
Ví dụ như “hiệu suất” (Rating Performance) của bạn
trong một giải là 2570, có nghĩa là bạn thể hiện trình độ thi đấu của mình ở
giải đó cỡ “kiện tướng quốc tế”. Như vừa rồi Lê Quang Liêm đạt “hiệu suất” ở
Aeroflot Open là 2872, tức là ở đó Liêm đạt trình độ thi đấu ở tầm cỡ vô địch
thế giới, hàng siêu đại kiện tướng. Các báo đài trên thế giới ca ngợi Liêm hết
lời cũng là vì cái con số hiệu suất 2872.
Tiếp tục nhé! Theo quy định của FIDE, nếu như “hiệu
suất” của bạn ở một giải quốc tế đạt 2450, bạn sẽ có 1 chuẩn kiện tướng quốc
tế, tiếng Anh là “Norm”, bạn sẽ nhận được 1 cái giấy chứng nhận chuẩn kiện
tướng quốc tế (tất nhiên là phải có vài điều kiện khác về
luật kèm theo giải); Hoặc nếu bạn có hiệu suất thi đấu là 2600 bạn
sẽ có 1 chuẩn Đại kiện tướng đấy. Sướng chưa!
Như vậy “cường số” và “hiệu suất” có quan hệ với
nhau và được sử dụng cho 2 mục đích khác nhau trong hệ thống của FIDE; Một để
đánh giá sức mạnh của đấu thủ và thể hiện trên bảng xếp hạt nhân định kỳ của
FIDE 2 tháng 1 lần; Một để đánh giá khả năng của các đấu thủ và chỉ thể hiện
trong một giải thi đấu.
Trên đây là phần trình bày giải thích về “Cường số”
và “Hiệu suất”. Hy vọng là tôi không đi quá nhanh và vắn tắt đến mức không thể
hiểu được.
Nếu bạn chỉ cần tìm hiểu thôi thì có thể tạm dừng ở đây được rồi; Riêng các nhà
chuyên môn, tôi đề nghị các bạn hãy đón đọc tiếp các phần tiếp theo trình bày
cách tính của 2 dạng số này.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét